Đạo Phật ra đời cách đây đã 25 thế kỷ, và đã
trở thành một tôn giáo lớn có ảnh hưởng đến toàn bộ tư tưởng của thế giới. Sự
ảnh hưởng của đạo Phật đã lan truyền khắp nơi và càng ngày càng được nhiều giới
tri thức đón nhận nồng nhiệt , điều đó chứng minh giá trị bất hữu của đạo Phật
. Dù thời gian trôi qua hàng ngàn năm nhưng triết lý đạo phật dù đang ở thời kỳ
khoa học hiện đại vẫn được tìm hiểu và làm sáng tỏ thêm và tăng giá trị của đạo
phật .Trong kinh Tăng Chi đức Phật dạy :”Phật pháp là thiết thực hiện tại ,
không có thời gian , đến để mà thấy , được người trí tự mình giác hiểu ”.
Đạo phật có hai luồng tư tưởng lớn là Đại thừa
và tiểu thừa.Thiền của tiểu thừa hay còn gọi là thiền nguyên thủy như thiền tứ
niệm xứ , thiền ngũ đình tam quán …Thiền Đại thừa như thiền chỉ quán , thiền
lục diệu pháp môn , thiền Pháp Hoa tam muội…Nhìn chung thì cả hai phương pháp
thiền này đều áp dụng lời dạy của đức Phật nên còn gọi là Như Lai thiền .Phương
pháp tu tập này được tu tập ở hầu hết các nước Á đông , nơi mà những thế kỷ đầu
của tây lịch phật giáo du nhập vào .Những phương pháp thiền này được thiền sư
Khương Tăng Hội làm cho nổi bậc và pháp triển ở Đại Việt .
Những nguồn tư tưởng này được du nhập vào
Trung hoa rất sớm .
Đặc biệt , khi thiền tông truyền vào Trung hoa
, nhất là thời đại của Tổ Bồ Đề Đạt Ma về sau này đặc biệt là Lục tổ Huệ Năng
thì sắc thái thiền tông hoàn toàn thay đổi. Thiền trở về với chính nó và giúp
cho hành giả trực ngộ bản tâm một cách tuyệt đối .Đây là sáng tạo của chư vị tổ
sư nên được gọi là thiền Tổ Sư. Đây là sáng tạo đặc biệt của thiền tông Trung Hoa , mặc dù thiền được khế thừa
từ Ấn Độ nhưng có thể nói là sản phẩm độc đáo của Trung Quốc đối với Phật giáo.
Phật giáo được truyền vào trung Hoa từ những
thế kỷ đầu Tây Lịch và các thiền sư như An thế Cao (đời Hán ), Ca Diếp , Ma
Đằng … đã truyền các tư tưởng thiền nhưng không làm nổi bậc phng thái thiền
học.Đến thế kỷ thứ VI , tức năm 520 , Bồ Đề Đạt Ma chính thức truyền bá thiền
tông vào Trung Quốc , đây cũng là bướt ngoặc để thiền tông phát triển và khởi
sắc chân giá trị của thiền tổ sư . Chủ trương
của thiền tông được Tổ Bồ đề đạt ma chủ xướng :”bất lập văn tự , giáo
ngoại biệt truyền , trực chỉ chân tâm , kiến tánh thành phật”.Mặc dù chủ trương
như vật nhưng ngài hoàn toàn không xử dụng đúng tông chỉ như thế , bởi vì Ngài
còn mang nặng sắc thái thiền của Ấn Độ . Giữa hai tư tưởng Ấn Độ và Trung Hoa
vẫn có những điểm đối lập nhau : Người Ấn luôn hướng về triết học thần bí siêu
hình ; Người Trung hoa thì bình dị , đơn giản mà thực tiển cho nên khó có thể
hòa nhập ngay được.Như trường hợp gặp nhau giữa Bồ đề đạt ma và vui Lương Võ Đế
đã không thành công là điều tất nhiên .
Vua Lương Võ Đế hỏi : Trẩm xây dựng hơn 70
kiểng chùa ,độ chúng tăng nhiều vô số việc ấy có công đức gì không ? Đạt ma trả lời : Không có công đức .
Câu trả lời đã làm nhà vua
hoàn toàn thất vọng và buổi đầu của cuộc tiếp xúc của tư tưởng thiền tông của
Ấn độ đối với người trung hoa đã thất bại . Câu nói phủ đầu của Tổ đối với nhà
vua hoàn toàn không có tác dụng , bởi người Trung Hoa không chấp nhận những câu
nói cầu kỳ rắc rối như thế !
Ngài Đạt ma muốn cảm hóa nhà
vua làm việc đừng chấp tướng , vì nó còn giới hạn ở phước báo nhân thiên .
Nhưng với quan điểm trái ngược nhau nên buổi đầu gặp mặt Ngài đã thất bại và
phải qua đất Ngụy , rồi ngồi ngó vách chín năm để đợi thời cơ . Người Trung hoa
đầu tiên có thể bỏ mọi thành kiến để chấp nhận sự thử thách phủ đầu của Bồ đề
đạt ma chính là Thần Quang . Thần Quang nghe tiếng của Đạt ma đã đến hỏi đạo
.Trong khi Thần Quang đứng cả đêm ngoài trời tuyết ngập đến phủ đầu gối , vậy
mà Ngài Đạt Ma vẫn nói một câu hết sức vô tình “diệu đạo vô thượng của chư Phật
phải nhiều kiếp tinh tấn , chỉ có chút lao khổ nhọc nhằn mà cầu pháp chân thừa
sao ?” Vượt qua được thử thách này thì Thần Quang trở thành người Trung Hoa đầu
tiên tiếp nhận được thiền của Bồ Đề Đạt Ma .Như vậy có thể xem Ngài Đạt Ma là
gạch nối của thiền tông Ấn Độ và Trung Hoa và cũng là vị tổ cuối cùng của Ấn Độ
và sơ tổ của Trung Hoa .
.Các phương pháp hành thiền
2.1 Tứ niệm xứ
Tứ niệm xứ là phương pháp cổ
xưa mà đích thân đức Phật dạy cho các đệ tử.Nhờ thực hành mà các vị này đã
chứng thánh quả A la hán (vô sanh).Cũng là pháp của Phật mà người theo Đại thừa
coi đây là pháp tiểu thừa rồi bị lãng quên , phật pháp không có đại tiểu mà tất
cả chỉ là do sự phân biệt của chúng ta mà thôi.
Tứ niệm xứ là phương pháp tu
tập trọng yếu nhất dựa vào kinh Tứ niệm xứ do đức Phật chỉ dạy cách đây 2500
năm nhằm uốn nắn , rèn luyện làm cho quân bình và thanh lọc thân tâm .
Pháp niệm xứ được thiết lập
trên sự áp đặt tâm niệm (Satipatthana ).Sati có nghĩa là niệm ,patthanala một
hình thức rút ngắn của Upatthana có nghĩa là để gần lại tâm của mình .
Mở đầu bài kinh Đức Phật có dạy :
“Sau đây là những lời tôi
nghe Đức Thế Tôn dạy , hồi Ngài còn đang cư ngụ ở Kammassadhamma , một khu phố
của giống dân Kuru . Một hôm Đức Thế Tôn gọi chư Tăng : “này các tỳ kheo”. Chư
Tăng đáp : “thưa Thế Tôn có chúng con đây”. Phật nói này các vị : “Đây ta chỉ
cho các vị con đường duy nhất để có thể gạn lọc bản thân , vượt thoát mọi phiền
não, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Pháp Niệm
xứ ”.
Pháp Niệm Xứ có bốn phần , đó là :
Tinh chuyên chú niệm vào :
-Thân .Niệm thân.
-Thọ.Niệm thọ.
-Tâm.Niệm tâm.
-Pháp .niệm pháp.
Điểm chủ yếu của pháp này chủ
yếu là niệm và quán sát.
a)
Niệm thân.
Hành
giả quán niệm thân thể nơi thân thể . Quán niệm thân thể là biết rõ được những
điều liên quan và đang xảy ra ngay nơi thân thể, chứ không phải là cảm giác hay
là ý tưởng .Những hành động của thân thể như là co dũi tay chân đều nhận rõ .Quán
niệm về thân thể gồm có :Hơi thở ra vô, bốn oai nghi (đi ,đứng, nằm , ngồi),
các động tác thông thường , các bộ phận ở trong cơ thể , tứ địa và chín giai
đoạn tan rã của thân thể.
Trong
phương pháp niệm thân thì phần quan trọng nhất chính là phuong pháp quán niêm
hơi thơ vô ra (anapanasati). Hành giả ngồi xếp bằng thoải mái , đạt hết tâm ý
vào sự theo dõi và ghi nhận hơi thở vào hơi thở ra.Khi hít vào hơi thở ngắn thì
biết rằng đang hít vào hơi thở ngắn , khi thở ra một hơi thở ngắn thì hành giả
biết rằng mình đang thở ra một hơi thở ngắn …Đây là phương pháp hành thiền phổ
thông mà ai cũng có thể thực hành được để lắng tâm cũng như dể gom tâm an trụ
tâm . Chính Đức Phật xưa kia dưới cội Bôf Đề cũng hành trì để chứng quả Vô
thượng bồ đề , và Ngài cũng quả quyết tầm quan trọng của phương pháp này.
b)Niệm
thọ hay cảm giác
Quán
niệm thọ là hành giả nhận rõ cảm giác một cách khách quan những cảm thọ của
mình : vui sướng , đau khổ hoặc không vui không khổ , xem chúng khởi lên và
biến mất như thế nào .Ví dụ như là có một cảm giác vui thì hành giả liền biết
và ghi nhận là : có một cảm giác vui, và như thế hành giả hay biết những cảm
thọ khác và cảm nhận chúng một cách đúng thực tế , nó như thế nào thì ghi nhận
như thế đó , không thêm hay bớt .Cảm giác vui có mặt thì hầu hết mọi người đều
muốn nó tồn tại lâu dài và cảm thấy vui sướng phấn khởi , còn khi có cảm thọ
buồn khổ thì lại thấy thất vọng.Phương pháp tu tập này giúp cho hành giả cảm
nghiệm được tất cả các cảm giác một cách khách quan với tâm xả , tránh đi tâm
lý bị chi phối bởi những cảm giác .
c)Niệm
tâm
Trong
cuộc sống hàng ngày thì biết bao những ý nghĩ đã đến rồi đi mà chúng ta chưa hề
ghi nhận chúng . Niệm tâm là nếu có những ý nghĩ hay tư tưởng phát sinh thì
hành giả phải ý thức và ghi nhậnchúng một cách rõ ràng .Những tư tưởng ở đây có
thể là tốt là xấu hay là thiện hoặc bất thiện. Hành giả quán sát theo dõi ,
nhìn nhận chúng mà không cảm thấy bất mãn . phương pháp quán niệm tâm giúp cho
hành giả thấu đạt được bản chất và hoạt động của tâm . Những ai thường siêng
niệm tâm thì sẽ học được cách kiểm soát và điều kiển tâm mình
d)
Niệm pháp .
Trong
phần này thì hành giả quán niệm về năm hiện tượng ngăn che tâm thức hay còn gọi
là ngũ cái (Nivarana) :tham dục , sân hận , hôn trầm , trạo cự , nghi hối . Năm
nhóm tụ hợp hay ngũ ấm (Khanda) : sắc , thọ ,tưởng , hành , thức . Sáu giác
quan và sáu đối tượng hay còn gọi là lục căn và lục trần (Ayatana) :mắt , tai ,
mũi , lưỡi , thân , ý và hình sắc , âm thanh , mùi hương , vị nếm , xúc chạm ,
tư tưởng .Bảy yếu tố của sự ngộ đạo (Bọhangga) : Niệm , trạch pháp , tinh tấn ,
hỷ , khinh an , định , hành xả . Bốn sự thật cao quý , tứ diệu đế (Cattari Ariya Sacca): khổ đau ,
nguyên nhân đưa đến khổ đau , sự chấm dứt khổ đau , và con đườn dẫn đến sự chấm
dứt khổ đau.
Và đặc biệt là cuối lời kinh nói rằng người
nào thực hành bốn quán niệm trên , người đó có khả năng đạt được quả vị chánh
trí (A la hán)ngay ở đây và trong kiếp này , hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt
được quả vị A na hàm .Trong kinh cũng thường lập đi lập lai câu “Vị ấy sống tự
do và không còn bám víu vào một thứ gì trong thế gian .“Tự do ” ở đây có nghĩ
là không còn bị tham ái chi phối , cùng tất cả sự ràng buộc của danh sắc , một
bản ngã thường hay là một cái ta nào .
Tứ
niệm xứ là một phương pháp hành thiền chứ không phải là một hệ thống lý thuyết
suông. Trong hệ thống Đại thừa thì 37 phẩm trợ đạo thường không được khai thác
triệt để đúng với danh từ của nó mà chỉ được biết đến như là những lý thuyết
cần biết mà thôi , trong các sách phật học thì Tứ niệm xứ thường được tóm tắt
như sau :
1/
Quán thân bất tinh .
2/Quán
thọ thì khổ
3/Quán
tâm vô thường
4/Quán
pháp vô ngã.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét