Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Tư Tưởng Phật Thể Thời Phật Giáo Du Nhập



I.Dẫn Nhập      

   Phật giáo từ Ấn Ðộ du nhập Việt Nam đã trên hai ngàn năm. Ngay từ rất sớm, Phật giáo đã được tiếp nhận và trở thành một tư tưởng chủ đạo trong nền văn hóa dân tộc, dĩ nhiên là sau khi đã bản địa hóa Phật giáo. Suốt hơn hai ngàn năm lịch sử, Phật giáo luôn đồng cam cộng khổ với vận mệnh thăng trầm của xứ sở, trong công cuộc chống ngoại xâm cũng như sự nghiệp dựng nước, mở mang bờ cõi, đánh bạt âm mưu xâm lăng và nô dịch về văn hóa của thế lực phương Bắc trong nhiều giai đoạn. Do vậy, lịch sử Phật giáo Việt Nam có vai trò rất là to lớn đối với dân tộc Việt Nam, đó là niềm tự hào của người dân Việt Nam.Phật giáo thời kỳ này được ghi nhận là mang đậm dấu ấn văn hóa bản địa và mô tả theo tư duy tín ngưỡng của người Việt.Hình ảnh của Đức Phật được tiếp biến bằng những hình ảnh sống động : “mình cao trượng sáu, thân đều sắc vàng, đỉnh đầu có nhục kế, má như sư tử, lưỡi che được mặt, tay có ngàn xoáy, cổ sáng chiếu ngàn dặm”...như báo hiệu một nhân cách lớn, gây ứng tượng về hình ảnh Đức Phật , con người hy hữu, một nhân cách lớn, giống như trong huyền thoại, huyền sử trong kho tàng chuyện cổ tích Việt. Do đó người viết đã chọn đề tài “Trình bày tư tưởng Phật thể thời kỳ Phật giáo du nhập” nhằm làm sáng tỏ thêm những chi tiết mà thời kỳ Phật giáo được truyền vào Việt Nam , để người học Phật hiểu rõ thêm đặc tính văn hóa của người Việt đối với Phật giáo, đặc biệt là vị toàn giác.
 Đề tài chỉ đề cập đến tư tưởng Phật thể vào thời kỳ Phật giáo du nhập vào xứ việt, đó cũng là giới hạn của đề tài.Người viết sẽ đặt trọng tâm vào tư tưởng Phật thể.hình ảnh của Đức Phật cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa bản địa qua văn, thơ , truyện cổ tích.
Đây cũng là một đề tài nguyên cứu quen thuộc đối với các nhà nguyên cứu Phật giáo Việt Nam nên cũng có nhiều tác phẩm bàn đến chủ đề này.Tuy nhiên người viết nghĩ rằng muốn phát triển văn hóa Phật giáo thì cần rất nhiều các bài nguyên cứu về tinh thần văn hóa trong phật giáo, đặc biệt là buổi ban đầu đất nước tiếp nhận đạo Phật.Khi viết bài tiểu luận này người viết đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu hiện đang có qua sách vở, báo chí , và những lời giảng của chư tôn đức.

 II.Nội dung

1.Sơ lược về Đức Phật Thích ca Mâu Ni

    Tất –đạt –đa sinh năm 566 trước Công nguyên , là con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-Gia tại Ca-tỳ -la-vệ nay thuộc Nepal .Hoàng hậu Ma-gia đã đản sinh Tất –đạt-đa  dưới cây Vô Ưu tại khu vườn Lâm -tỳ -ni khi đang thưởng hoa.Thái Tử Đản sinh oai nghiêm như vị Pháp Sư , không dính chút nhơ bẩn nào từ người mẹ, chân không chạm đất , có 4 thiên tử đỡ rồi trao cho Hoàng hậu Ma-Gia và thưa :“Hoàng hậu hãy hoan hỷ .Hoàng hậu vừa sinh ra bậc vĩ nhân ”([1])
    Ngay lúc sinh ra tất-đạt đa đã có đầy đủ 32 hảo tướng .Các nhà tiên tri cho rằng Thái tử sẽ trở thành một vị Chuyển luân thánh vương hay là một bậc giác ngộ .Sau khi sinh Tất-đạt-đa được 7 ngày thì hoàng hậu ma-Gia mất .Tất –đạt –đa được kế mẫu là M-ha-ba-xà-ba-đề chăm só .Lúc 16 tuổi thì Tất-đạt-đa kết hôn với công chúa Da-du-đà-la con của vua Thiện Giác .Vua Cha rất thương yêu Thái tử , không muốn cho con đi tu nên dạy dỗ con rất kỹ lưỡng .Không bao giờ cho Tất-đạt –đa thấy được cảnh khổ của con người .Tuy nhiên sau khi đi dạo bốn của thành và thấy được cảnh  già bệnh chết của con người và hình ảnh của một tu sĩ thì Thái tử đã quyết tâm xa rời cung vàng điện ngọc , vợ đẹp con ngoan để sống một đời sống đạo sĩ không nhà .Các cảnh khổ trên chính là do chư thiên tạo ra để cảnh tỉnh Thái tử xuất gia cứu độ muôn loài, ba cảnh khổ chính là nỗi khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của Tất –đạt –đa .
    Sau khi công chúa Da-du-đà-la sinh ra một hoàng nam , đặt tên là La-hầu-la , Thái tử quyết định lìa cung điện xuất gia.Sau khi đi gặp các bậc thầy tâm linh có tiếng nhất bấy giờ nhưng vẫn chưa thấy được ánh đạo , Tất –đạt-đa quyết định cùng tu với các nhóm đạo sĩ khác nhau.Theo truyền thống của Ấn –Độ thời bấy giờ thì chỉ có con đường khổ hạnh mới đạt đạo .Nơi A-la-la-ca-lam , Tất –đạt –đa đạt được cấp thiền Vô sở hữu xứ , nơi Ưu-đà-la-la-ma thì học đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ .
 Ở với các vị đó nhưng lời thắc mắc về sanh tử luân hồi vẫn chưa được giải đáp , Tất đạt-đa quyết tâm tự tìm con đường giải thoát và có 5 anh em Kiều-trần-như làm bạn đồng hành .Sau nhiều năm tu khổ hạnh không có kết quả , trong tâm Ngài xuất hiện 3 tư tưởng đặt biệt chưa từng có .
 Như với một khúc cây xanh , đầy nhựa sống , để trong nước thì sẽ không nhúm lên lữa được .Cũng vậy , với lòng đầy dục vọng , tham ái , người tu sẽ không chứng được Chánh Đẳng Giác .
 Như với khúc cây xanh ấy , sau khi vớt ra khỏi nước ,sẽ không nhúm lên lữa được .Cũng vậy , với lòng đầy tham ái , nhiệt não , người tu sẽ không đi đến chứng ngộ Vô thượng Bồ Đề .
 Như với khúc cây khô , được lấy ra khỏi nước và được để trên một chổ đất khô , với đồ làm lữa người ta có thể nhúm lên được lữa .Cũng vậy với lòng xả ly dục ái , tham ái , người tu có thể chứng đắc A-la-hán , Chánh Đẳng Giác.([2])
, Tất –đạt –đa quyết định ăn uống bình thường lại và 5 người bạn thấy thế đã bỏ ra đi .    Sau đó Tất -đạt –đa ăn uống bình thường trở lại , đi đến Giác Thành tỉnh tọa dưới góc cây Bồ-đề ở Bồ Đề đạo tràng và nguyền không rời khỏi chổ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và con đường giải thoát khổ đau .Sau 49 ngày thiền định , mặc dù trải qua nhiều thử thách và quấy nhiễu của Ma vương , Tất –đạt-đa đạt giác ngộ ở tuổi 35 .Kể từ thời điểm đó một vị Phật đã ra đời , Tất –đạt-đa biết mình là một người giác ngộ và thấy rõ con đường tái sanh và hoại diệt của muôn vật trong vũ trụ .Kinh nghiêm giác ngộ đã được đức Phật miêu tả trong Kinh Trung Bộ như sau:
... Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền (Tứ thiền), nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.
    Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những kí ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm, ..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...'. Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu
Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại, ...chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai
Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lí 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba ..".([3])
     Đức Phật đã chuyển bánh xe pháp luân tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại cho năm anh em Kiều-trần-như.Kể từ đây thì tam bảo bắt đầu có mặt .Sau đó thì Phật đã vân du khắp các xứ thuộc Ấn –độ để tuyên thuyết đạo vàng cho mọi người .Đệ Tử của Phật có nhiều thành phần trong xã hội như vua Tần-bà-sa-la ở xứ ma-kiệt-đà. Vị vua này đã phát tâm hiến cúng tịnh xá Trúc Lâm cho Tăng Đoàn cư trú .Các đệtử quan trọng nhất của Phật chính là Ca-Diếp , Xá-lợi-phât, Mục-kiền-liên, A- nan .Trong thời gian này thì Tỳ Kheo Ni cũng được thành lập khi Phật cho phép di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề xuất gia tu tập .
    Đến 80 tuổi thì Phật nhập diệt tại Câu-thi-na vào năm 486 trước Tây lịch.Khi hỏa thiêu thì Xá-lợi Phật được chia làm 8 phần cho các nước xây tháp phụng thờ . Sau 45 năm thuyết pháp đọ sanh thì những lời dạy của Phật được các đệ tử Kiết tập lại thành Kinh , Luật ,Luận .

2.Quan Điểm Đức Phật thời Du nhập

  Theo các tài liệu có giá trị và nhưng khảo cứu của các nhà lịch sử thì Phật giáo được truyền vào khoảng thế kỷ I Tây lịch. Khi bắt đầu đem tư tưởng phật giáo vào mảnh đất này, các nhà truyền giáo đã tùy theo phương tiện mà bản địa hóa Phật giáo để hợp với tâm linh người Việt. Hình ảnh của Đức Phật được Mâu Tử miêu tả trong Lý Hoặc Luận cho ta cái nhìn khá đầy đủ về quan niệm của nhân dân ta đối với Đức Phật, để từ đó cho ta thấy rõ diện mạo và đặc trưng của đạo Phật. Các sách Tuỳ Chí Đường Chí đều có nói đến sách này của Mâu Tử[4]
Ở điều 1 và điều 2 của sách Lý hoặc luận có đề cập đến hình ảnh của đức Phật qua cái nhìn của tín ngưỡng tâm linh của nhân dân thời đó
 Có người hỏi:
- Phật từ đâu sinh ra? Có Tổ tiên và làng nước gì không? Đã làm được gì, giống loại người nào?
Mâu Tử đáp:
- Giàu thay câu hỏi! Xin đem dốt nát nói qua điểm chính. Bởi nghe công trạng giáo hoá của Phật, tích chứa đạo đức, hàng ngàn ức đời, không sao ghi chép. Nhưng khi sắp thành Phật, thì sinh ở Thiên Trúc, mượn hình nơi vợ vua Bạch Tĩnh. Bà ngủ ngày, mộng thấy cưỡi voi trắng, thân có sáu ngà, hớn hở thích thú, bèn xúc cảm mà có thai. Đến tháng tư mồng tám, Phật theo sườn bên phải của mẹ mà sinh, đặt chân xuống đất, đi  bảy bước giơ tay phải lên, nói: “Trên trời dưới trời không có gì hơn Ta!”. Bấy giờ trời đất rung mạnh, trong cung sáng ngời. Hôm ấy, người ở cung vua cũng sinh ra một đứa con, trong tầu ngựa trắng cũng cho ngưạ con bú; đầy tớ Xa Nặc, ngựa tên là Kiền Trắc. Vua thường theo Thái tử. Thái tử có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, mình cao trượng sáu, thân đều sắc vàng, đỉnh đầu có nhục kế, má như sư tử, lưỡi che được mặt, tay có ngàn xoáy, cổ sáng chiếu vạn dặm. Đây là nói qua tướng Phật. Năm 17 tuổi, vua cha bắt lấy công chúa nước láng giềng làm vợ. Thái tử ngồi thì dời chỗ, nằm thì riêng giường. Đạo trời rộng sáng mà âm dương thông đồng. Bà có mang con trai, sáu năm mới sinh. Vua cha trân quý Thái tử, dựng cho cung điện, kỹ nữ, đồ chơi châu báu, đều bày trước mắt. Thái Tử không ham thú vui ở đời, muốn giữ đạo đức. Năm 19 tuổi, ngày mồng tám tháng tư, nửa đêm gọi Xa Nặc đóng yên Kiền Trắc vượt thành. Quỷ Thần nâng đỡ, bay ra khỏi cung. Hôm sau không biết ở đâu. Vua cùng quan dân thẩy đều sụt sùi, đuổi tới cánh đồng. Vua bảo: “Khi chưa có con, cha cầu xin Thần, nay đã có con, như ngọc như trân, nên nối ngôi tước, chứ bỏ đi đâu?”
Thái tử tâu: “Muôn vật vô thường, có rồi phải mất. Nay muốn học đạo, độ thoát mười phương.”
Vua biết Thái tử đã kiên quyết, bèn đứng lên về. Thái tử đi thẳng, suy tư về đạo, sáu năm thì thành Phật. Sở dĩ Ngài sinh vào tháng tư mùa hạ, đó là lúc không nóng, không lạnh, cây cỏ đơm hoa, cởi áo lông chồn, mặc áo thưa mỏng, là biết trung lữ vậy. Sở dĩ Phật sinh ở Thiên Trúc là chỗ trung hoà trong trời đất vậy. Kinh do Phật viết gồm đến 12 bộ hợp tám ức bốn ngàn vạn quyển. Quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn lời trở lên. Phật dạy thiên hạ, cứu vớt giải thoát nhân dân. Nhân ngày 15 tháng 2 nhập tịch mà đi. Kinh điển và giới luật tiếp tục tồn tại, noi theo mà làm, cũng đạt vô vi, phúc đến đời sau. Kẻ giữ năm giới, một tháng sáu ngày trai. Ngày trai giới thì chuyên tâm vào một ý, hối lỗi mà tự đổi mới. Sa môn giữ 250 giới, hàng ngày trai giới. Giới ấy không phải cho ưu bà tắc được nghe vậy. Oai nghi đi đứng cùng điển lễ ngày xưa không khác. Suốt ngày thâu đêm giảng đạo tụng kinh, không tham dự việc đời”.[5]
 Ngay Ở điều đầu tiên trong tác phẩm của mình, Mâu tử đã khắc họa hình tượng đức Phật lịch sử trong Huyền sử của Phật giáo Ấn Độ là một người thật có mặt giữa cuộc đời tu tập giác ngộ.Cha của Ngài là vua Tịnh Phạn, còn mẹ là Hoàng Hậu Maya.Từ một vị Thái Tử tu tập trở thành một vị toàn giác, đem ánh sáng giác ngộ truyền bá khắp xứ Ấn Độ, được ghi nhận theo tâm thức của người Việt thời bấy giờ. Các yếu tố Huyền sử chỉ nhằm khắc họa hình ảnh một bậc vĩ nhân sắp xuất hiện giữa cuộc đời mà không người thường nào có được.Các yếu tố Huyền sử được sử dụng tiếp biến, hình ảnh sống động, được miêu tả như như tín ngưỡng tâm linh của số đông người Việt. Hình ảnh, chi tiết “Mượn hình nơi vợ vua Bạch Tĩnh. Bà ngủ ngày, mộng thấy cưỡi voi trắng, thân có sáu ngà, hớn hở thích thú, bèn xúc cảm mà có thai”;  “mình cao trượng sáu, thân đều sắc vàng, đỉnh đầu có nhục kế, má như sư tử, lưỡi che được mặt, tay có ngàn xoáy, cổ sáng chiếu vàng dặm”; “Bà có mang con trai, sáu năm mới sinh”; “Quỷ Thần nâng đỡ, bay ra khỏi cung”; “Khi chưa có con, cha cầu xin Thần, nay đã có con, như ngọc như trân, nên nối ngôi tước, chứ bỏ đi đâu?”. Chính những hình ảnh và chi tiết mô tả xung quanh sự kiện hy hữu Phật đản sinh ở đời khi đọc lên, khiến chúng ta có ấn tượng đây là hình ảnh đức Phật thị hiện được ghi lại trong các huyền thoại, huyền sử thuộc Kho tàng cổ tích Việt Nam.Những câu chuyện mà thưở nhỏ ai cũng hơn một lần được mẹ kể vào mỗi tối trước khi say giấc.Bằng cách này hình ảnh của Đức Phật sẽ được người Việt nhìn nhận hết sức gần gũi, thân thương biết chừng nào.Qua lời ru của mẹ mà đức Phật sẽ đi cùng với tâm thức người Việt hết cả cuộc đời, cống hiến công sức của mình cho đời và đạo.

3.Quan Điểm Phật Thể Thời Du Nhập

 Trong tác phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Tử thì tinh thần Phật thể được miêu tả rất rõ nét.Qua cách trình bày hình ảnh Đức Phật từ lúc Đản sinh, cho đến khi thành đạo, thuyết pháp để lai hệ thống giáo lý của điều 1 trong 37 điều của tác phẩm  thì đây cũng là cơ sở để thiết lập Phật thể quan thật hiện thực từ trong đời sống được diễn tiến hằng ngày hằng phút của xã hội Việt Nam bấy giờ được ghi trong điều 2 của tác phẩm Lý hoặc luận khi có người hỏi Phật có nghĩa là gì và được Mâu Tử lý giải và khẳng định:
“…Phật là nguyên tổ của đạo đức, đầu mối của thần minh. Nói Phật nghĩa là giác, biến hoá nhanh chóng, phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, nhỏ được, lớn được, tròn được, vuông được, già được, trẻ được, ẩn được, vuông được, đạp lửa không bỏng, đi dao không đau, ở dơ không bẩn, gặp hoạ không mắc, muốn đi thì đi, ngồi thì loé sáng, nên gọi là Phật”.
Một quan điểm về Phật thể như thế sẽ tác động mạnh mẽ vào tâm thức con người trong chiều hướng thăng tiến, được xây dựng trên nền tảng của nguyên lý đạo đức của con người, là đầu mối của thần minh, chứ không phải gì khác ngoài hiện thực con người đang sống. Hay nói cách khác, xuất phát điểm từ con người, vì con người mà sống theo nguyên lý đạo đức của con người thiết lập mà chuyển hoá thân tâm, sống tốt đời đẹp đạo. Chính xuất phát từ nhận thức như thế, mà tự thân mỗi con người luôn nỗ lực nhiệt tâm tự giác sống đúng luật nghi, phòng hộ các căn, tẩy rửa thân tâm, tỉnh thức để thiết lập các mối quan hệ giữa người với người, giữa người với môi trường sống của xã hội. Cụ thể là sống theo nếp sống đạo, trên nền tảng xây dựng đạo đức cuộc sống như điều 1 của Lý hoặc luận vạch định:
“Ngày trai giới thì chuyên tâm vào một ý, hối lỗi mà tự đổi mới. Sa môn giữ 250 giới, hàng ngày trai giới. Giới ấy không phải cho ưu bà tắc được nghe vậy. Oai nghi đi đứng cùng điển lễ ngày xưa không khác…”.
Một người sống theo nguyên lý đạo đức thì hoá hiện những phẩm chất cao thượng, sau đó đi đến sự an định trong tâm thức và thăng tiến trí tuệ, đó là Giác. Một người đã làm hoá hiện tính giác thì khả năng sáng tạo vô cùng to lớn và có thể làm nhiều điều kỳ diệu cho chính mình, cho mọi người và cho cả cuộc đời. Do đó, hình ảnh đức Phật được Mâu Tử ghi nhận là một con người với vẻ đẹp toàn bích cuả đạo đức và các phẩm chất năng lực siêu việt với cách diễn đạt đầy quyền năng như là một khát vọng sống. Mục đích là để con người vượt qua những chướng duyên và khó khăn từ trong cuộc đời. Và như thế, Phật cũng trở thành nhân vật lý tưởng, một mục tiêu hướng tới mà bất kỳ người nào sống trên cõi trần này đều có khả năng vươn tới và thành tựu.
Thực tế, nguyên uỷ của nghĩa Phật là Giác, là tỉnh thức về sự thật con người và thế giới hiện hữu quanh ta. Có điều, Mâu Tử vào thời đó, ngoài việc nêu Phật là nguyên tổ đạo đức, đầu mối thần linh, còn triển khai ý nghĩa “Giác” qua một số yếu tính khác nữa hết sức quyền năng và thần thông như chứng tỏ khả năng vô hạn của con người là có thể khi “trí tuệ bừng khởi” và soi sáng cho đời từ trong hiện thực khổ đau cần phải vượt thoát: “biến hoá nhanh chóng, phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, nhỏ được, lớn được, tròn được, vuông được, già được, trẻ được, ẩn được, vuông được, đạp lửa không bỏng, đi dao không đau, ở dơ không bẩn, gặp hoạ không mắc, muốn đi thì đi, ngồi thì loé sáng”. Một người Phật tử khi làm được điều này là có nghĩa thực hiện được mục đích cao cả mà Phật giáo thời đó đề ra như điều 1, Lý hoặc luận ghi: “Phật dạy thiên hạ, cứu vớt giải thoát nhân dân”.
Thế là Phật giáo thời du nhập ở nước ta cho chúng ta cái nhìn hiện thực, nó tạo sức sống mới để tạo ra mẫu người Phật tử tự tin về chính bản thân mình. Con người tự nương tựa vào chính mình mà hoàn thiện bản thân, thành tựu nhân cách, an trú trong sự bình an nội tại mà thăng tiến trí tuệ. Đó là bản chất của đạo Phật mà Mâu Tử đề xuất trong Lý hoặc luận được ghi trong điều 3 và 4. Cụ thể là “…Nhìn không có hình, nghe không có tiếng. Bốn phương là lớn, nó vượt ra ngoài, tơ hào là nhỏ, nó lọt vào trong” và “…Đạo làm ra muôn vật, ở nhà có thể dùng thờ cha mẹ, làm chủ nước có thể dùng trị dân, đứng một mình có thể làm dùng để sửa thân…”. Điều này khẳng định, mục đích tối hậu của của đạo Phật có mặt ở đời không ngoài ý nghĩa giải quyết các vấn đề khổ đau từ hiện thực cuộc sống mà con người luôn giáp mặt. Trên hết, đạo Phật luôn đòi hỏi mọi người Phật tử không chỉ lo hoàn thiện đạo đức bản thân, mà còn biết sống tốt với những người thân trong gia đình và tham gia tích cực đóng góp cho đời trong một trọng trách cao quý là “trị nước an dân”.Tinh thần tích cực đó đã giúp cho nhân dân Việt có được một hệ thống tư tưởng độc lập tự chủ của riêng mình, vì người láng giềng khổng lồ luôn muốn thống trị mảnh đất Giao Châu bé nhỏ cả về chính trị lẫn văn hóa, xã hội.Vì thế tư tưởng Phật thể chính là triết lý mà nhân dân Việt mong ước bấy lâu nay nhằm có được hệ thống tư tưởng cho riêng mình để có thể bảo vệ quyền độc lập tự chủ của đất nước.Điều đó cũng giải thích được vì sao mà các vị vua thời Đinh ,Lê, Lý,Trần tâm đến Phật giáo và phát triển hệ thống tư tưởng này đến với toàn dân.Đặc biệt thời đại Lý Trần là thời kỳ Phật giáo hưng thịnh nhất cũng chín là thời mà văn hóa, chính trị , kinh tế, xã hội phát triển nhất của nước nhà.

4.Phật giáo đóng góp cho tinh thần yêu nước của người Việt.

 Phật giáo từ thời kỳ đầu du nhập đã theo tín ngưỡng tâm linh của người Việt mà miêu tả hình tượng Đức Phật và hệ thống giáo lý phù hợp với phong tục , tập quán và lề lối đạo đức của nước ta.Mục đích tối hậu của Phật giáo là có mặ ở đời để giúp cho con người thoát khổ trong cuộc sống hiện tại, xây dựng một đất nước công bằng, văn minh, đạo đức.Từ khi đạo Phật có mặt ở nước ta thì đã đồng hành cùng dân tộc.Khi đất nước độc lập thì các vị Thiền Sư giúp dân sống hiền lành đạo đức, mở trường dạy học cho nhân dân, tham gia giúp Vua phát triển đất nước.Khi nước nhà bị họa ngoại xâm thì cũng chính các nhà sư là người cùng dân tộc đứng lên chống lại kẻ xâm lược.Đặc biệt tinh thần từ bi trí tuệ của Đạo Phật đã được dân Việt áp dụng một cách khéo léo, ngoài việc hoàn thiện mình  cần phải có trách nhiệm đối với đất nước.Người con Phật phải luôn tự tin vào bản thân của mình để luôn phát triển nhân cách đến cảnh giới chân thiện mỹ.
 Phật giáo của người Việt có những điểm đặc biệt so với Phật giáo Ấn Độ và thế giới. Do tinh thần tự lập của người Việt rất cao mà những tư tưởng về Phật thể có những điểm rất độc đáo. Cách ứng dụng giáo pháp của Phật rất thực tế và gần gũi với đa số quần chúng.Tư tưởng của Đạo Phật thời du nhập đã cho ta cái thấy rất mới về quan điểm Đức Phật.niềm tin vào Phật tâm của chính mình đã đem lại sức mạnh rất lớn cho dân nước ta thời bấy giờ.Trung Quốc là một nước lớn chính là mối đe dọa thường trực đối với nền độc lập của nước ta lúc bấy giờ, do đó vũ khí tinh thần là rất quan trọng đối với một dân tộc nhỏ bé trước một kẻ xâm lược có sức mạnh quân sự rất mạnh. Phật giáo cũng chính là nơi che chở và phát triển đạo đức, văn hóa cho dân Việt:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”


















III.Kết Luận

   Cuộc sống đã bao lần thay đổi và thời gian đã trôi qua nhiều thế kỷ, nhưng Phật giáo vẫn đồng hành cùng dân tộc.Ngày hôm nay, xã hội đang trên đà tiến đến giai đoạn kinh tế phát triển mạnh, thì những giá trị của quá khứ  cần phải được trân quí, bảo lưu và giữ gìn cẩn thận. Bởi vì lịch sử là chấn tích sinh động làm cơ sở cho niềm tự hào của dân tộc..Việc giải thoát cho mình ra khỏi khổ đau sanh tử đã được chư vị Tổ Sư Việt Nam để lại chính là kho tàng quý giá cho thế hệ mai sau.Đức Phật dạy khi bị mê đắm sai lầm thì phải tu hành thanh tịnh để giải thoát sau đó mới có thế giúp đời .Lao vào những cảnh khổ đau để cứu chúng sanh mới chính là người con Phật vì Phật pháp. Tùy theo căn cơ và trình độ của chúng sanh mà Phật giáo triển khai phương tiện để đưa chúng sanh vào con đường giải thoát giác ngộ.Mỗi dân tộc có những tín ngưỡng tâm linh khác nhau.Vì thế mà cách biểu đạt Phật Pháp Tăng có những điểm đặc sắc.Điều đó làm giàu thêm cho ngôi nhà Phật pháp.Bởi Đạo Phật là đạo tùy duyên bất biến.Vì hạnh phúc của muôn loài mà Đạo Phật có những cách giáo hóa phù hợp với phong tục tập quán của đất nước.Ai cũng đều có khả năng thành Phật, vì thế giáo pháp của Phật cần được lưu bố rộng rãi để giúp chúng sanh thoát khổ, đạt cảnh giới an lạc của Niết bàn











Tài liệu tham khảo

1)Thích Thanh Từ: Thiền sư Việt Nam,  NXB TP Hồ Chí Minh , 1995.
2)Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận I-III, Hà Nội 1992.
3)Nguyễn Hiền Đức: Lịch sử Phật giáo đàng trong, TP HCM 1995.
4) Lê Mạnh Thát Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1,  , Nxb. Thuận Hóa, 1999.
5) ,  Nguyễn Lang Việt Nam Phật giáo sử luận, 3 tập, Nxb. Văn Học, 1994.
6) , Lê Mạnh Thát Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb. TPHCM, 1999.
7) Thích Thanh Từ Thiền sư Việt Nam, , Nxb. TPHCM, 1999.


(1)Theo kinh Hi Hữu Vị Tằng Hữu Pháp

 (2) Ðại kinh Saccaka (Mahàsaccakasuttam), Trung Bộ I.

  

[4] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận (I, II, III) tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000, tr 51.
[5] Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Mâu Tử, tập II, Tu Thư Vạn Hạnh, 1982, tr. 510

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét