Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

Dao Duc Phat giao


 Nền tảng của đạo đức Phật giáo đã có từ khi đạo phật có mặt trên thế gian này . Trong đó thì Luật tạng được coi là môn học đạo đức . Vì thế  Đạo đức Phật giáo chính là quan điểm đạo đức được nhìn với nhãn quan của Phật giáo .Toàn bộ nội dung đạo đức Phật giáo được cô đọng trong bài kệ sau :

                                “Không làm các việc ác 

                               Nên làm các việc lành

                               Thanh tịnh thân miệng ý

                               Là lời chư Phật dạy”.

Dựa vào căn bản đó mà Đức Phật đã chế ra giới luật tùy theo các cấp độ khác nhau .Tuy có sai khác nhưng tựu chung cũng được bao hàm trong năm giới cấm và mười điều thiện . Năm giới chính là nguyên tắc đạo đức căn bản để con người sống được hạnh phúc , xã hội ổn định và kiến tạo một thế giới thanh bình .Giới thứ nhất là không sát sanh là thể hiện được tinh thần từ bi và tôn trọng sự sống của muôn loài.Giới thứ hai là không trộm cắp là tôn trọng lẽ phải và tài sản của người khác .Giới thứ ba là không tà dâm là bảo vệ hạnh phúc của mình và mọi người . Giới thứ tư là không nói dối là tôn trọng sự thật .Giới thứ năm là không uống rượu là giữ gìn trí tuệ sáng suốt và sức khỏe .Trong bát chánh đạo thì ba chi phần chánh ngữ , chánh nghiệp , chánh mạng là ba nguyên tắc thuộc phạm trù đạo đức  . Vì thế đạo đức phật giáo chỉ nhằm mục đích giúp cho con người hướng tới diệt khổ và an  vui .Đây không phải là lý thuyết suông mà chính là đường lối thực hành thực tiển để con người có thể hưởng được hạnh phúc chân thực ngay tại cuộc sống hiện tại chứ không phải là thiên đường xa vời .

Nếu đạo đức  Phật Giáo là nết sống đem lại hạnh phúc và an lạc thì nếp sống ấy cũng đưa con người lên vị trí lên cao nhất .Cuộc đời của đức Phật là hình ảnh sinh động nhất về sức mạnh của người dựa trên sức mạnh của con người , tự mình tìm đạo , tự mình khổ hạnh , tự mình hành thiền cho đến khi giác ngộ .Như thế Ngài đã chứng minh rằng đau khổ không phải là do ai đem lại cho mình cũng như hạnh phúc không phải được một đấng thần linh nào ban cho , thiên đường hay địa ngục là do chính mình tạo ra . Với niệm lực và định lực của mình thì ta có thể vượt qua khổ đau tuệ tri được lạc để tránh thiền lạc , đạt được đạo quả giác ngộ .

Đạo đức phật giáo cũng chính là con người bỏ ác hành thiện , từ bỏ những bất thiện pháp mà thực hành những điều lành , biết bao lời này của Đức Phật về vấn đề này :

                                 “ Ác hạnh không nên làm

                                    Làm xong chịu khổ lụy

                                    Thiện hạnh ắt nên làm

                                    Làm xong không ăn năn”

                                                                     (Kinh Pháp Cú 318)

                                      Ai mến kẻ bất thiện

                                     Không ái luyến bậc thiện

                                     Thích pháp kẻ bất thiện ,

                                     Chính cửa vào bại vong”

                                                                       (Kinh Tập tr.18)

      Giáo lý nhân quả nghiệp báo chính là con đường đưa con người vào con đường chân thiện mỹ , con người sẽ có được những đức tính tốt .Bởi nhân quả chính là giáo lý có tính chân thực công bằng và đã được khoa học hiện đại chứng minh .Vạn vật trên thế gian đều chịu sự chi phối của luật nhân quả , nhân quả vừa đa điện vừa biến chuyển không ngừng chứ không phải là theo cách nghĩ thông thường là “Nhân nào quả đó”.Như trồng cây cam thì ta cần phải có hột giống rồi chăm sóc bón phân , diệt trừ sâu bọ đó chính là trợ duyên .Có chánh nhân rồi có trợ duyên thì mới công thành quả mãn . Nếu có chánh nhân mà không có trợ duyên thì kết quả cũng èo uột, hoặc chẳng thành . Do đó phải có đủ nhân duyên thì mới có được quả tròn đầy .Đạo Phật nói nhân quả để áp dụng vào đời sống của con người .Vì biết răng mọi kết quả đều có nguyên nhân của nó nên con người tránh đi việc ác mà lo làm các việc thiện , chứ không phải là do một thế lực linh thiêng nào .Biết rõ điều này nên khi có điều tốt đến thì ta cũng không nên vui mưng thái quá hay điều xấu đến thì lo lắng mà nên phải bình tỉnh suy xét từ nơi mình là tránh được bệnh hấp tấp vội vàng . Biết mình là chủ nhân của nghiệp quả của mình nên khi kết quả tốt xấu có đến thì vẫn bình thản nhận lấy , không oán hờn trách móc . Mình gây nhân thì thọ quả là lẽ công băng vì thế nên không dám làm các việc ác mà nên có tinh thần sáng suốt , như nói “Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ quả ”.Một quả được hình thành do nhiều nhân duyên vì thế muốn hiểu rõ thì phải thấu suốt ba đời nhân quả thì mới hoàn chỉnh .

1.     Đạo đức Phật giáo trong kinh điển.

          Như trong kinh Tăng Chi Đức Phật có dạy : “Thành tựu 5 pháp này các Tỳ kheo , Tỳ kheo sống trong hiện tại đau khổ, với tổn hại , với ưu não , với nhiệt não . sau khi thân hoại mạng chung được chờ đợi là ác thú . Thế nào là 5 ? Ở đây này các Tỳ kheo , Tỳ kheo không có lòng tin , không có lòng xấu hổ , không có lòng sợ hãi , biếng nhác và ác tuệ .Thành tựu 5 pháp này các Tỳ kheo , Tỳ kheo sống trong hiện tại sống an lạc , không có tổn não ,không có tổn não , không có nhiệt não , và sau khi mạng chung , được chờ đợi là cõi lành .Thế nào là 5 ? Này các Tỳ kheo , Tỳ kheo có lòng tin , có lòng hổ thẹn , có lòng sợ hãi , tinh cần tinh tấn , trí tuệ kinh …”(Tăng Chi II ,11).

 Đạo đức Phật giáo chỉ dạy cho con người sống một lối sống thanh tịnh , trong sạch , lành mạnh bởi một thanh tịnh thì mới đảm bảo hạnh phúc .Trong ví dụ Tấm vải Trung Bộ I , số 7 ),Đức Phật xác định một tấm vải cấu uế đem nhuộm sẽ được màu nhuộm không tốt . Cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế.Trái lại mộ tâm vải thanh tịnh trong sạch đem nhuộm sẽ được một màu tốt đẹp . Cũng vậy cõi thiện chờ đợi một tâm không cấu uế .Như vậy hạnh phúc chỉ đến với một tâm trong sạch .Không đến với một tâm hồn cấu uế .Đức Phật kể về 16 cấu uế tâm , trong ấy tham sân si là chính , cần phải tẩy sạc và đoạn trừ , nhờ lòng tịnh tín bất động đối với ba ngôi báu , nhờ chứng được nghĩa tín thọ và pháp tín thọ .Từ nơi đây , hân hoan liên hệ đến pháp sinh khởi ;từ hân hoan , hỷ khởi lên .Từ hỷ , thân được khinh an .Thân khinh an , cảm giác được lạc thọ .Với lạc thọ , tâm được thiền định (Trung Bộ I , 37A 37B ).

Các pháp môn Phật dạy thì pháp môn nào cũng dẫn đến kết quả đoạn tận bất thiện và thành tựu các thiện hạnh .như một hành giả muốn có kết quả thì trước tiên phải diệt trừ năm triền cái :Tham dục , sân hận , hôn trầm , trạo hối và nghi , để thay thế vào với tầm , tứ , hỷ , lạc , nhất tâm , tức là năm thiền chi thiện lành .Các triền cái , các kiết sử , lậu hoặc , tỳ miên được xem là các bất thiệ pháp cần phải được loại trừ để có thể chứng được quả vị giải thoát .Các pháp bất thiện chưa sanh chận đứng đừng cho sanh .Các pháp bất thiện đã sanh thời tinh tấn đoạn trừ .Các phát thiện chưa sanh , tinh tấn làm cho sanh khởi và các pháp thiện đã sanh  tinh tấn làm cho tăng trưởng .Đức Phật đã khéo léo dạy chúng ta phân biệt pháp nào là pháp thiện , pháp nào là pháp ác , như trong lời dạy sau đây của Ngài đối với du sĩ ngoại đạo Vacchagota :

“Tham là bất thiện , vô tham là thiện .Sân là bất thiện , vô tham là thiện .Sát sanh là bất thiện , không sat sanh là thiện .Lấy của không cho là bất thiện , từ bỏ lấy của không cho là thiện .Tà hạnh trong các dục là bất thiện , từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện . Nói láo là bất thiện , từ bỏ nói láo là thiện .Nói  hai lưỡi là bất , từ bỏ nói hai hai lưỡi là thiện .Nói lời độc ác là bất thiện , từ bỏ nói lời độc ác là thiện .Xan tham là bất thiện , từ bỏ xan tham là thiện .Sân là bất thiện , từ bỏ sân là thiện .Tà kiến là bất thiện , từ bỏ tà kiến là thiện .Như vậy này Vacchagota , mười pháp là bất thiện , mười pháp là thiện ”. (Trung Bộ II-135).

Đạo đức phật giáo chấp nhận luật nhân quả làm đinh luật chi phối hành vi thiện ác của mình .Nghiệp là hành động có dụng ý , tức là con người hoàn toàn nhận thức rõ được hành động của mình làm , còn không dụng tâm thì không gọi là nghiệp.Chính vì vậy Đức Phật xác định con người chính là chủ nhân của các nghiệp mình làm .Nghiệp do mình dụng tâm làm ra thì không thẻ nào chốn chạy .Con người chủ động hành vi của mình và chịu trách nhiệm với cuộc sống hiện tại và tương lai của mình , không quy trách nhiệm cho thần thánh hay bất kỳ thế lực siêu nhiên nào cả .Chỉ có con người chịutrách nhiệm về cuộc sống hạnh phúc hay đau khổ của  mình .

                                         “Tự mình làm điều ác

                                           Tự mình làm ô nhiễm

                                           Tự mình ác không làm

                                           Tự mình làm thanh tịnh

                                           Tịnh không , tịnh tự mình

                                            Không ai thanh tinh ai ”

                                                                          (Pháp Cú 155)

Như vậy chỉ có hành động của mình tạo ra và cũng chính ta phải nhận lấy kết quả .Nghiệp tốt đẹp hay là xấu chính là nguyên nhân của hạnh phúc hay khổ đau của con người .Con người chính là chủ nhân của nghiệp và khi nghiệp đã làm rồi thời không thể tránh khỏi kết quả của nghiệp :

                                              “Không trên trời dưới biển

                                               Không lánh vào động núi

                                             Không chổ nào trên đời

                                             Trốn được quả ác nghiệp ”

                                                                        (Pháp Cú 127)

 Tuy trong kinh nói “Người là chủ của nghiệp , đồng thời cũng là kẻ thừa tự nghiệp ”. Thế nhưng  khi nói con người là chủ nhân của nghiệp , là kẻ thừa tự của nghiệp, là chủ nhân của nghiệp.Chính mình hành động và chịu trách nhiệm về những hành động của mình .Không vì thế mà đạo Phật chấp nhận con người làm nô lệ của nghiệp , con người có tư thế chủ động đối với nghiệp mà mình tạo ra .

Thuyết nghiệp báo của Phật giáo không phải là quyết định luận hay vận mạng luận .Đó là lý do vì sao mà người cực ác nếu biết hối lỗi bỏ ác làm thiện , cũng có thể trở thành bậc thánh .Trái lại người hiền lành , nếu sống buông lỏng , giao du với kẻ xấu , không biết giữ gìn , chăm sóc ý nghĩ , lời nói và hành động của mình cũng có thể biến thành người ác , người xấu .Khả năng chuyển thiện thành ác yêu cầu chúng ta phải cảnh giác lời nói và ý nghĩ hành động của mình.Đồng thời cũng động viên mọi người bỏ ác hành thiện .Trong đệ tử của đức Phật đã có nhiều trường hợp như là sat nhân  Angulimala  , kỷ nữ Ampabali , sau khi xuất gia đã tinh tấn tu học và đều trở thành  bậc A-la-hán .Con người tuy là kẻ thừa tự của nghiệp nhưng với sự nổ lực và đúng hướng trong cuộc sống hiện tại thì có thể triệt tiêu hay là chuyển hướng nghiệp của mình trong quá khứ .

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

NHẬN THỨC VỀ THIỀN TÔNG

Giáo lý duyên khởi là giáo lý căn bản của đạo Phật và cũng là giáo pháp mà đức Thế tôn đã tuyên bố đây là pháp thâm lý không thể nào hiểu được khi chưa chứng đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác .Duyên khởi nói theo  danh từ của các nhà nguyên cứu thì đó là vấn đề” nhân sanh vũ trụ”.Từ xưa đến nay biết bao nhà khoa học triết gia đều hết sức đầu vì bài toán khó này và vẫn là bí ẩn đối với các các học giả của các tôn giáo hiện nay .Phật giaó thì khi nói đến vấn đề về nguồn gốc của con người và thế giới thì nói về bản thể luận hay chân lý thực tánh chứ không giải thích bằng hiện tượng là thứ huyễn có ,biến đổi theo thời gian .Lý tánh nhân duyên là chân lý của vũ trụ và  chân lý này đã được coi là giáo lý .Đức Thế tôn đã chứng ngộ giáo lý này và được trời người  tôn xưng là Bậc giác ngộ có đầy đủ mười hiệu .Hầu hết các bản kinh đều có ý kiến đồng nhất về vấn đề này ,không có văn bản nào nói khác về nội dung chứng ngộ đó . Khi còn là Thái tử thì ngài đã ưu tư về thân phận của con người trong cuộc sống chứa nhiều đau khổ này .Ai ai cũng phải chịu sự chi phối của quy luật sanh già bệnh chết .Ngài đã tự mình tìm ra con đường để thoát khỏi nỗi khổ và đem chân lý này để cứu khổ chúng sanh . Sau 49 ngày tư duy thiền định dưới cội Bồ đề mà Ngài đã ngộ ra được lý nhân duyên . Khi Ngài quán chiếu lý nhân duyên theo chiều thuận và nghịch lại một cách rành rẽ thì thực tướng của vạn pháp đã được hiển lộ một cách rõ ràng và Ngài đã tuyên bố sanh đã tận phạm hạnh đã thành và thân này chính là thân sau cùng , không còn phải chịu cảnh tái sinh nữa . Để có niềm tin và xác lập lý tưởng với con đường chuyển hoá, hành giả phải thấy được các chứng đắc siêu tuyệt của đức Phật như mười năng lực, bốn vô uý, tự tại trong các cộng đồng.Ngài còn là bậc đạo sư thấu rõ được hết nguyên nhân tập khởi của vạn pháp và các con đường dẫn đến tái sinh của các chúng sanh và quỹ nhân quả đạo đức của mọi chúng sanh . Do đó mà đức Phật đã thuyết lý nhân duyên trong kinh Đại duyên và làm sáng tỏ những mắc xích nhân duyên trong chuổi vận hành của vạn pháp .Khi đã thấy rõ được thực tướng thì chuyển mê khai ngộ vì Đức thế Tôn đã thấy rõ được nguyên nhân của khổ đau là do mê làm gốc . con đường thoát khổ là con đường giải mê , là mở rộng mắt tuệ để thấy mình là ai .Chính mình hiểu theo nghĩa rốt ráo ,phật đạo gọi là “bản tâm” hay “bản tính ”, “phật tính” .Thấy được bản tâm rồi thì sống trong cái thấy đó thì là đổi khổ thành vui vậy!Đây là cái vui vĩnh  cữu hay còn gọi là Niết bàn .Giữa khổ đau và Niết bàn chỉ có một khoảng cách chỉ là khoảng khắc một sát na.Như thể nhắm mắt và mở mắt!Như chính Đại sư Huệ Năng từng nói:”Tiền niệm mê tức phàm phu , hậu niệm ngộ tức Phật” (Niệm trước còn mê thì phàm ; niệm sau ngộ thì Phật ), hoặc “ngộ tắc sát na gian (Ngộ thì chỉ trong thời gian một sát na ) .Tuy vậy khoảng khắc đó trong thực tế không dể bướt qua .Tóm lại Phật đạo hay Thiền đạo cốt yếu là như vậy . Là con đường thoát khổ .
 Đạo Phật ra đời cách đây đã 25 thế kỷ, và đã trở thành một tôn giáo lớn có ảnh hưởng đến toàn bộ tư tưởng của thế giới. Sự ảnh hưởng của đạo Phật đã lan truyền khắp nơi và càng ngày càng được nhiều giới tri thức đón nhận nồng nhiệt , điều đó chứng minh giá trị bất hữu của đạo Phật . Dù thời gian trôi qua hàng ngàn năm nhưng triết lý đạo phật dù đang ở thời kỳ khoa học hiện đại vẫn được tìm hiểu và làm sáng tỏ thêm và tăng giá trị của đạo phật .Trong kinh Tăng Chi đức Phật dạy :”Phật pháp là thiết thực hiện tại , không có thời gian , đến để mà thấy , được người trí tự mình giác hiểu ”.
 Đạo phật có hai luồng tư tưởng lớn là Đại thừa và tiểu thừa.Thiền của tiểu thừa hay còn gọi là thiền nguyên thủy như thiền tứ niệm xứ , thiền ngũ đình tam quán …Thiền Đại thừa như thiền chỉ quán , thiền lục diệu pháp môn , thiền Pháp Hoa tam muội…Nhìn chung thì cả hai phương pháp thiền này đều áp dụng lời dạy của đức Phật nên còn gọi là Như Lai thiền .Phương pháp tu tập này được tu tập ở hầu hết các nước Á đông , nơi mà những thế kỷ đầu của tây lịch phật giáo du nhập vào .Những phương pháp thiền này được thiền sư Khương Tăng Hội làm cho nổi bậc và pháp triển ở Đại Việt .
 Những nguồn tư tưởng này được du nhập vào Trung hoa rất sớm .
 Đặc biệt , khi thiền tông truyền vào Trung hoa , nhất là thời đại của Tổ Bồ Đề Đạt Ma về sau này đặc biệt là Lục tổ Huệ Năng thì sắc thái thiền tông hoàn toàn thay đổi. Thiền trở về với chính nó và giúp cho hành giả trực ngộ bản tâm một cách tuyệt đối .Đây là sáng tạo của chư vị tổ sư nên được gọi là thiền Tổ Sư. Đây là sáng tạo đặc biệt của thiền  tông Trung Hoa , mặc dù thiền được khế thừa từ Ấn Độ nhưng có thể nói là sản phẩm độc đáo của Trung Quốc đối với Phật giáo.
 Phật giáo được truyền vào trung Hoa từ những thế kỷ đầu Tây Lịch và các thiền sư như An thế Cao (đời Hán ), Ca Diếp , Ma Đằng … đã truyền các tư tưởng thiền nhưng không làm nổi bậc phng thái thiền học.Đến thế kỷ thứ VI , tức năm 520 , Bồ Đề Đạt Ma chính thức truyền bá thiền tông vào Trung Quốc , đây cũng là bướt ngoặc để thiền tông phát triển và khởi sắc chân giá trị của thiền tổ sư . Chủ trương  của thiền tông được Tổ Bồ đề đạt ma chủ xướng :”bất lập văn tự , giáo ngoại biệt truyền , trực chỉ chân tâm , kiến tánh thành phật”.Mặc dù chủ trương như vật nhưng ngài hoàn toàn không xử dụng đúng tông chỉ như thế , bởi vì Ngài còn mang nặng sắc thái thiền của Ấn Độ . Giữa hai tư tưởng Ấn Độ và Trung Hoa vẫn có những điểm đối lập nhau : Người Ấn luôn hướng về triết học thần bí siêu hình ; Người Trung hoa thì bình dị , đơn giản mà thực tiển cho nên khó có thể hòa nhập ngay được.Như trường hợp gặp nhau giữa Bồ đề đạt ma và vui Lương Võ Đế đã không thành công là điều tất nhiên .
  Vua Lương Võ Đế hỏi : Trẩm xây dựng hơn 70 kiểng chùa ,độ chúng tăng nhiều vô số việc ấy có công đức gì không ?  Đạt ma trả lời : Không có công đức .
Câu trả lời đã làm nhà vua hoàn toàn thất vọng và buổi đầu của cuộc tiếp xúc của tư tưởng thiền tông của Ấn độ đối với người trung hoa đã thất bại . Câu nói phủ đầu của Tổ đối với nhà vua hoàn toàn không có tác dụng , bởi người Trung Hoa không chấp nhận những câu nói cầu kỳ rắc rối như thế !
Ngài Đạt ma muốn cảm hóa nhà vua làm việc đừng chấp tướng , vì nó còn giới hạn ở phước báo nhân thiên . Nhưng với quan điểm trái ngược nhau nên buổi đầu gặp mặt Ngài đã thất bại và phải qua đất Ngụy , rồi ngồi ngó vách chín năm để đợi thời cơ . Người Trung hoa đầu tiên có thể bỏ mọi thành kiến để chấp nhận sự thử thách phủ đầu của Bồ đề đạt ma chính là Thần Quang . Thần Quang nghe tiếng của Đạt ma đã đến hỏi đạo .Trong khi Thần Quang đứng cả đêm ngoài trời tuyết ngập đến phủ đầu gối , vậy mà Ngài Đạt Ma vẫn nói một câu hết sức vô tình “diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh tấn , chỉ có chút lao khổ nhọc nhằn mà cầu pháp chân thừa sao ?” Vượt qua được thử thách này thì Thần Quang trở thành người Trung Hoa đầu tiên tiếp nhận được thiền của Bồ Đề Đạt Ma .Như vậy có thể xem Ngài Đạt Ma là gạch nối của thiền tông Ấn Độ và Trung Hoa và cũng là vị tổ cuối cùng của Ấn Độ và sơ tổ của Trung Hoa .
.Các phương pháp hành thiền
2.1 Tứ niệm xứ
Tứ niệm xứ là phương pháp cổ xưa mà đích thân đức Phật dạy cho các đệ tử.Nhờ thực hành mà các vị này đã chứng thánh quả A la hán (vô sanh).Cũng là pháp của Phật mà người theo Đại thừa coi đây là pháp tiểu thừa rồi bị lãng quên , phật pháp không có đại tiểu mà tất cả chỉ là do sự phân biệt của chúng ta mà thôi.
Tứ niệm xứ là phương pháp tu tập trọng yếu nhất dựa vào kinh Tứ niệm xứ do đức Phật chỉ dạy cách đây 2500 năm nhằm uốn nắn , rèn luyện làm cho quân bình và thanh lọc thân tâm .
Pháp niệm xứ được thiết lập trên sự áp đặt tâm niệm (Satipatthana ).Sati có nghĩa là niệm ,patthanala một hình thức rút ngắn của Upatthana có nghĩa là để gần lại tâm của mình .
 Mở đầu bài kinh Đức Phật có dạy :
“Sau đây là những lời tôi nghe Đức Thế Tôn dạy , hồi Ngài còn đang cư ngụ ở Kammassadhamma , một khu phố của giống dân Kuru . Một hôm Đức Thế Tôn gọi chư Tăng : “này các tỳ kheo”. Chư Tăng đáp : “thưa Thế Tôn có chúng con đây”. Phật nói này các vị : “Đây ta chỉ cho các vị con đường duy nhất để có thể gạn lọc bản thân , vượt thoát mọi phiền não, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Pháp Niệm xứ ”.
 Pháp Niệm Xứ có bốn phần , đó là :
Tinh chuyên chú niệm vào :
-Thân .Niệm thân.
-Thọ.Niệm thọ.
-Tâm.Niệm tâm.
-Pháp .niệm pháp.
Điểm chủ yếu của pháp này chủ yếu là niệm và quán sát.
a)     Niệm thân.
Hành giả quán niệm thân thể nơi thân thể . Quán niệm thân thể là biết rõ được những điều liên quan và đang xảy ra ngay nơi thân thể, chứ không phải là cảm giác hay là ý tưởng .Những hành động của thân thể như là co dũi tay chân đều nhận rõ .Quán niệm về thân thể gồm có :Hơi thở ra vô, bốn oai nghi (đi ,đứng, nằm , ngồi), các động tác thông thường , các bộ phận ở trong cơ thể , tứ địa và chín giai đoạn tan rã của thân thể.
Trong phương pháp niệm thân thì phần quan trọng nhất chính là phuong pháp quán niêm hơi thơ vô ra (anapanasati). Hành giả ngồi xếp bằng thoải mái , đạt hết tâm ý vào sự theo dõi và ghi nhận hơi thở vào hơi thở ra.Khi hít vào hơi thở ngắn thì biết rằng đang hít vào hơi thở ngắn , khi thở ra một hơi thở ngắn thì hành giả biết rằng mình đang thở ra một hơi thở ngắn …Đây là phương pháp hành thiền phổ thông mà ai cũng có thể thực hành được để lắng tâm cũng như dể gom tâm an trụ tâm . Chính Đức Phật xưa kia dưới cội Bôf Đề cũng hành trì để chứng quả Vô thượng bồ đề , và Ngài cũng quả quyết tầm quan trọng của phương pháp này.
b)Niệm thọ hay cảm giác
Quán niệm thọ là hành giả nhận rõ cảm giác một cách khách quan những cảm thọ của mình : vui sướng , đau khổ hoặc không vui không khổ , xem chúng khởi lên và biến mất như thế nào .Ví dụ như là có một cảm giác vui thì hành giả liền biết và ghi nhận là : có một cảm giác vui, và như thế hành giả hay biết những cảm thọ khác và cảm nhận chúng một cách đúng thực tế , nó như thế nào thì ghi nhận như thế đó , không thêm hay bớt .Cảm giác vui có mặt thì hầu hết mọi người đều muốn nó tồn tại lâu dài và cảm thấy vui sướng phấn khởi , còn khi có cảm thọ buồn khổ thì lại thấy thất vọng.Phương pháp tu tập này giúp cho hành giả cảm nghiệm được tất cả các cảm giác một cách khách quan với tâm xả , tránh đi tâm lý bị chi phối bởi những cảm giác .
c)Niệm tâm
Trong cuộc sống hàng ngày thì biết bao những ý nghĩ đã đến rồi đi mà chúng ta chưa hề ghi nhận chúng . Niệm tâm là nếu có những ý nghĩ hay tư tưởng phát sinh thì hành giả phải ý thức và ghi nhậnchúng một cách rõ ràng .Những tư tưởng ở đây có thể là tốt là xấu hay là thiện hoặc bất thiện. Hành giả quán sát theo dõi , nhìn nhận chúng mà không cảm thấy bất mãn . phương pháp quán niệm tâm giúp cho hành giả thấu đạt được bản chất và hoạt động của tâm . Những ai thường siêng niệm tâm thì sẽ học được cách kiểm soát và điều kiển  tâm mình
d) Niệm pháp .
Trong phần này thì hành giả quán niệm về năm hiện tượng ngăn che tâm thức hay còn gọi là ngũ cái (Nivarana) :tham dục , sân hận , hôn trầm , trạo cự , nghi hối . Năm nhóm tụ hợp hay ngũ ấm (Khanda) : sắc , thọ ,tưởng , hành , thức . Sáu giác quan và sáu đối tượng hay còn gọi là lục căn và lục trần (Ayatana) :mắt , tai , mũi , lưỡi , thân , ý và hình sắc , âm thanh , mùi hương , vị nếm , xúc chạm , tư tưởng .Bảy yếu tố của sự ngộ đạo (Bọhangga) : Niệm , trạch pháp , tinh tấn , hỷ , khinh an , định , hành xả . Bốn sự thật cao quý  , tứ diệu đế (Cattari Ariya Sacca): khổ đau , nguyên nhân đưa đến khổ đau , sự chấm dứt khổ đau , và con đườn dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.
 Và đặc biệt là cuối lời kinh nói rằng người nào thực hành bốn quán niệm trên , người đó có khả năng đạt được quả vị chánh trí (A la hán)ngay ở đây và trong kiếp này , hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị A na hàm .Trong kinh cũng thường lập đi lập lai câu “Vị ấy sống tự do và không còn bám víu vào một thứ gì trong thế gian .“Tự do ” ở đây có nghĩ là không còn bị tham ái chi phối , cùng tất cả sự ràng buộc của danh sắc , một bản ngã thường hay là một cái ta nào . 
Tứ niệm xứ là một phương pháp hành thiền chứ không phải là một hệ thống lý thuyết suông. Trong hệ thống Đại thừa thì 37 phẩm trợ đạo thường không được khai thác triệt để đúng với danh từ của nó mà chỉ được biết đến như là những lý thuyết cần biết mà thôi , trong các sách phật học thì Tứ niệm xứ thường được tóm tắt như sau :
1/ Quán thân bất tinh .
2/Quán thọ thì khổ
3/Quán tâm vô thường
4/Quán pháp vô ngã.